Các chất trong trà có lợi cho sức khỏe
Ở Việt Nam có rất nhiều người uống trà, đa phần là chè khô và chè Thái Nguyên được rất nhiều người tin dùng và nổi tiếng
. Nhưng có lẽ mọi người cũng chưa biết hết được những thành phần trong trà mà rất có lợi cho sức khỏe của chúng ta.
. Nhưng có lẽ mọi người cũng chưa biết hết được những thành phần trong trà mà rất có lợi cho sức khỏe của chúng ta.
Hôm nay, Chè Thái Nguyên Cô Cúc xin chia sẻ một vài thông tin về các chất trong trà có lợi cho sức khỏe con người hiện nay.
1. Axit amin
Với hàm lượng axit amin trong trà khoảng từ 2-5%. Axit amin có tác dụng tốt như: trợ tim, lợi tiểu, nở giãn huyết quản…
2. Vitamin
Trong lá chè có loại vitamin hòa tan trong lipid và vitamin hòa tan trong nước. Vitamin hòa tan trong lipid như: A1, A2, D1, D2, D3, D4, K1, K2 và vitamin hòa tan trong nước như: B1, B2, B6, B12, PP, pantotenic, C, P . Đối với các loại vitamin hòa tan trong nước, khi hãm trà với nước sôi, có thể chiết xuất tới 80% vitamin.
Chúng ta hãy tìm hiểu một số chất Vitamin có lợi cho sức khỏe!
Vitamin C
Là thành phần có tương đối nhiều trong trà. Cứ trung bình trong 100g trà khô thì có tới 100-500mg vitamin C, cao hơn các loại quả như: chanh, dứa, táo và cam. Vitamin C trong chè xanh rất dễ bị phân giải bởi các chất oxy hóa, nhất là ở nhiệt độ cao và khi có kim loại nặng như Cu [đồng], Fe [sắt]; Chính vì thế trong quá trình sao chè khô thì lượng Vitamin cũng giảm đi so với là chè xanh.
Vitamin C trong trà có tác dụng ngăn ngừa bệnh cao huyết áp và xơ cứng động mạch. Vitamin C trong trà còn có tác dụng giải độc, có lợi cho hệ tiêu hóa. Theo nghiên cứu, hàm lượng vitamin C dành cho người lớn là 60mg/ngày, vì thế việc uống 3-4 chén trà/ngày là đã cung cấp đủ Vitamin C cho cơ thể.
Vitamin B trong lá chè có nhiều loại; tác dụng, hàm lượng và nhu cầu của mỗi loại đối với cơ thể con người đều khác nhau.
Vitamin B1 (Thianin) có tác dụng duy trì cơ năng thông thường trằng cách thúc đẩy trao đổi vật chất của hệ thống thần kinh, tim phổi và tiêu hóa; giảm chứng bị viêm thần kinh, phòng ngừa tối loạn nhịp tim phổi và dạ dày. Trong 100g trà có 150-160mg vitaminB1; nhu cầu cần thiết hàng ngày của con người là 1700mg vitamin B1, 1 chén trà có 4,5-18mg vitamin B1; 5 chén trà uongs mỗi ngày mới đảm bảo 1,3-1,5 nhu cầu vitamin B1.
Vitamin B2 còn gọi là vitamin G, là riboflavin hạch hoàng tố, thường thiếu trong thành phần dinh dưỡng hàng ngày; thiếu vitamin B2 ảnh hưởng đến oxy hóa vật chất trong cơ thể người; thiếu vitamin B2 thường biểu hiện ở mắt, chỗ tiếp giáp nhau của da và niêm mạc; do đó vitamin B2 có tác dụng phòng trị viêm giác mạc, viêm da, viêm giác mạc miệng. Trong 100g trà có 1300-1700mg vitamin B2, cao hơn đỗ tương 5 lần, cao hơn gạo và dưa hấu 20 lần. Con người cần 1800mg/ngày; uống 5 chén trà/ngày mới cung cấp 11-14% nhu cầu vitamin B2.
Vitamin B3 (vitamin PP), thiếu nó trong cơ thể làm cho hàm lượng coenzym trong cơ bắp giảm rõ rệt và bị bệnh.
Vitamin B11 còn gọi là folic axit, có tác dụng dự phòng máu thiếu Fe [Sắt]. 100g trà khô có 50-80mg B12; uống 5 chén trà/ngày mới đảm bảo 2,5-4,0% vitamin B12 nhu cầu cơ thể người/ngày.
Vitamin P1 duy trì tính thẩm thấu của tế bào và vi huyết quản, chống albumin thẩm thấu vào huyết quản, giảm xuất huyết mao quản, tăng tính đàn hồi của huyết quản và chống cao huyết áp.
Vitamin tan trong lipid: Gồm có A, D, E, K… Trong đó vitamin E thúc đẩy chức năng sinh sản tế bào, chống oxy hóa, có hiệu quả trẻ hóa con người. 100g trà có 57-70mg vitamin E; vitamin K có tác dụng cầm máu.
3. Chất Khoáng
Chất khoáng là những chất không thể thiếu của cơ thể con người; có loại tham gia cấu tạo các mô tế bào và cơ xương; có loại tham gia việc duy trì tính thẩm thấu bên trong, sự cân bằng axit-bazo và sự trao đổi chất trong cơ thể. Trong trà có tới hơn 40 khoáng chất, bao gồm những nguyên tố đa lượng như K, Ca, Na, P, Mg, Cl và nguyên tố trung và vi lượng như Si, Fl, Al, Cd, Fe, Mn, Co, Zn, Se, As, Mo…
Muốn xác định thành phần khoáng chất trong chè phải xác định các thành phần trong chất tro của chè. Chất tro là phần vật chất còn lại sau khi nung chè ở nhiệt độ cao 500-600°C. Chất tro chia thành 2 nhóm, hòa tan và không hòa tan trong nước. Nhóm không hòa tan trong nước lại chia thành 2 nhóm nhỏ, hòa tan và không hòa tan trong axit HCl pha loãng.
Đó là một chỉ tiêu chất lượng chè thường xuyên phải phân tích. Hàm lượng tro trong chè biến đổi theo độ non già búp chè, thời kỳ sinh trưởng, giống chè… Trong búp chè có 4-5% tro, trong trà khô có 5-6% tro trong trà sản phẩm. Tổng lượng chất tro cao là chè xấu và mức độ vệ sinh công nghiệp kém.
– Kali hàm lượng cao nhất là 1,5-2,5%. Kali là chất cation chủ yếu trong tế bào chè; có tác dụng trọng yếu trong trao đổi vật chất, áp suất thẩm thấu và cân bằng huyết dịch.
– Selenium (GSH-PX) là một thành phần không thể thiếu trong thành phần tổ chức mô tế bào. Có tác dụng kích thích sản sinh tính miễn dịch protid và kháng thể, tăng cường tính đề kháng với bệnh tât, có tác dụng nhất định với bệnh tim. Hàm lượng trà xanh Tử Dương Thiển Tây tương đối cao đạt tới 1,5-3,8ppm. Tuy nhiên, uống trà có hàm lượng Se quá cao có thể gây nên rụng lông.
– Zn thông qua sự hình thành của RNA và DNA trực tiếp ảnh hưởng đến sự hợp thành của axit cucleic và protid. Nếu thiếu Zn thì sinh trưởng phát duchj của nhi đồng và thanh thiếu niên bị chậm lại. Hàm lượng Zn của các khu vực sản xuất chè Trung Quốc không đồng nhất. 1g trà không có 35-50mg Zn; trà xanh là 41,4, trà đen là 39,3, trà Ô long là 37,3mg Zn.
– Fluor là môi giới chủ yếu của kết cấu xương; có tác dụng phòng trị tốt đối với bệnh răng và bệnh loãng xương. Hàm lượng Fl trong chè tương đối cao (trên 100ppm), thùy loại trà, theo thứ tự cao đến thấp sau đây: Hắc trà, Ô long trà, trà đen, trà xanh. Thiếu Fl dễ mắc bệnh khắc sơn (Parkinson) và ung thư đại tràng. Fl có nhiều trong trà gạch ép bánh, là một loại trà yêu thích của các dân tộc thiểu số vùng Tây Tạng, Tân Cương, Cam Túc, Nội Mông Cổ. Các vùng này phần lớn nằm tại cao nguyên, lấy chăn nuôi súc mục làm nghề chính; trong kết cấu khẩu phần lương thực với một hàm lượng lớn là thịt và sữa, có nhu cầu uống trà gạch hàng ngày để phân giải lipid, hỗ trợ tiêu hóa và bổ sung vitamin. Do đó trà gạch (bánh) đã trở thành một nhu yếu phẩm phải có trong sinh hoạt hàng ngày của dân tộc thiểu sống vùng biên cương. Nhưng quá nhiều Fl lại gây bệnh Fluorosis ảnh hưởng đến sức khỏe.
– Calcium: Hàm lượng Ca trong trà xanh là 1,4-3,3mg, trà đen là 2,9-6,6mg/g trà khô.
– Magie trong trà xanh là 1,2-2,4mg, trà đen là 1,2-2,3mg/g trà khô.
– Fe trong trà xanh là 80-260mg, trà đen là 100-290mg/g trà khô.
– Mangan trong trà xanh là 0,2-1,1mg, trà đen là 0,25-1,3mg/g trà khô.
Mỗi ngày uống 5-6 chén trà thì đảm bảo ±45%, 25% và 10% nhu cầu về mangan, kali, Se và Zn.
4. Các loại glucid (hydratcarbon)
Glucid là loại vật chất dinh dưỡng chủ yếu của con người, để duy trì ổn định giữ nhiệt độ cơ thể. Glucid là nhóm hợp chất hữu cơ quan trọng và phổ biến trong thực vật. Hàm lượng glucid chiếm tới 85-9-% trong nhiều thực vật, nhưng trong lá chè thấp, không vượt quá 20% trọng lượng chất khô, thuộc loại nước uống ít đường thích hợp người mắc bệnh đái tháo đường.
Glucid là nguồn chủ yếu cung cấp năng lượng trong tế bào thực vật và có tác dụng chống rét, chống bệnh. Glucid trong cây chè phân loại thành hai nhóm lớn:
– Glucid đơn giản hay monosacarid (như đường bồ đào, glucose).
– Glucid phức tạp hay polysaccarid, do nhiều phần tử monosaccarid kết hợp với nhau thành mạch dài có trọng lượng phân tử lớn; nhóm này không tan trong nước hoặc tạo thành dung dịch keo (như tinh bột, cellulose).
– Hàm lượng glucid hòa tan trong nước tăng theo tuổi lá chè; hàm lượng glucid không tan nhiều hơn trong trà xấu.
– Các loại glucid (đường) hòa tan rất ít, còn các loại không hòa tan thì nhiều hơn. Đường hòa tan trong chè tuy ít nhưng có giá trị lớn trong việc điều hòa vị chè và tham gia trong quá trình caramen hóa dưới tác dụng của nhiệt độ, để tạo thành hương thơm vị ngọt (mùi thơm cốm nổi lên trong khi sao chè, hay mùi hương đọng lại trong chén uống trà). Đường khử tác dụng với catechin hay với axit amin (phenylalanin) trong quá trình lên men hay nhiệt học, tạo nên màu nâu sáng hay vàng rơm và mùi hoa quả.
Vitamin B trong lá chè có nhiều loại; tác dụng, hàm lượng và nhu cầu của mỗi loại đối với cơ thể con người đều khác nhau.
Vitamin B1 (Thianin) có tác dụng duy trì cơ năng thông thường trằng cách thúc đẩy trao đổi vật chất của hệ thống thần kinh, tim phổi và tiêu hóa; giảm chứng bị viêm thần kinh, phòng ngừa tối loạn nhịp tim phổi và dạ dày. Trong 100g trà có 150-160mg vitaminB1; nhu cầu cần thiết hàng ngày của con người là 1700mg vitamin B1, 1 chén trà có 4,5-18mg vitamin B1; 5 chén trà uongs mỗi ngày mới đảm bảo 1,3-1,5 nhu cầu vitamin B1.
Vitamin B2 còn gọi là vitamin G, là riboflavin hạch hoàng tố, thường thiếu trong thành phần dinh dưỡng hàng ngày; thiếu vitamin B2 ảnh hưởng đến oxy hóa vật chất trong cơ thể người; thiếu vitamin B2 thường biểu hiện ở mắt, chỗ tiếp giáp nhau của da và niêm mạc; do đó vitamin B2 có tác dụng phòng trị viêm giác mạc, viêm da, viêm giác mạc miệng. Trong 100g trà có 1300-1700mg vitamin B2, cao hơn đỗ tương 5 lần, cao hơn gạo và dưa hấu 20 lần. Con người cần 1800mg/ngày; uống 5 chén trà/ngày mới cung cấp 11-14% nhu cầu vitamin B2.
Vitamin B3 (vitamin PP), thiếu nó trong cơ thể làm cho hàm lượng coenzym trong cơ bắp giảm rõ rệt và bị bệnh.
Vitamin B11 còn gọi là folic axit, có tác dụng dự phòng máu thiếu Fe [Sắt]. 100g trà khô có 50-80mg B12; uống 5 chén trà/ngày mới đảm bảo 2,5-4,0% vitamin B12 nhu cầu cơ thể người/ngày.
Vitamin P1 duy trì tính thẩm thấu của tế bào và vi huyết quản, chống albumin thẩm thấu vào huyết quản, giảm xuất huyết mao quản, tăng tính đàn hồi của huyết quản và chống cao huyết áp.
Vitamin tan trong lipid: Gồm có A, D, E, K… Trong đó vitamin E thúc đẩy chức năng sinh sản tế bào, chống oxy hóa, có hiệu quả trẻ hóa con người. 100g trà có 57-70mg vitamin E; vitamin K có tác dụng cầm máu.
3. Chất Khoáng
Chất khoáng là những chất không thể thiếu của cơ thể con người; có loại tham gia cấu tạo các mô tế bào và cơ xương; có loại tham gia việc duy trì tính thẩm thấu bên trong, sự cân bằng axit-bazo và sự trao đổi chất trong cơ thể. Trong trà có tới hơn 40 khoáng chất, bao gồm những nguyên tố đa lượng như K, Ca, Na, P, Mg, Cl và nguyên tố trung và vi lượng như Si, Fl, Al, Cd, Fe, Mn, Co, Zn, Se, As, Mo…
Muốn xác định thành phần khoáng chất trong chè phải xác định các thành phần trong chất tro của chè. Chất tro là phần vật chất còn lại sau khi nung chè ở nhiệt độ cao 500-600°C. Chất tro chia thành 2 nhóm, hòa tan và không hòa tan trong nước. Nhóm không hòa tan trong nước lại chia thành 2 nhóm nhỏ, hòa tan và không hòa tan trong axit HCl pha loãng.
Đó là một chỉ tiêu chất lượng chè thường xuyên phải phân tích. Hàm lượng tro trong chè biến đổi theo độ non già búp chè, thời kỳ sinh trưởng, giống chè… Trong búp chè có 4-5% tro, trong trà khô có 5-6% tro trong trà sản phẩm. Tổng lượng chất tro cao là chè xấu và mức độ vệ sinh công nghiệp kém.
– Kali hàm lượng cao nhất là 1,5-2,5%. Kali là chất cation chủ yếu trong tế bào chè; có tác dụng trọng yếu trong trao đổi vật chất, áp suất thẩm thấu và cân bằng huyết dịch.
– Selenium (GSH-PX) là một thành phần không thể thiếu trong thành phần tổ chức mô tế bào. Có tác dụng kích thích sản sinh tính miễn dịch protid và kháng thể, tăng cường tính đề kháng với bệnh tât, có tác dụng nhất định với bệnh tim. Hàm lượng trà xanh Tử Dương Thiển Tây tương đối cao đạt tới 1,5-3,8ppm. Tuy nhiên, uống trà có hàm lượng Se quá cao có thể gây nên rụng lông.
– Zn thông qua sự hình thành của RNA và DNA trực tiếp ảnh hưởng đến sự hợp thành của axit cucleic và protid. Nếu thiếu Zn thì sinh trưởng phát duchj của nhi đồng và thanh thiếu niên bị chậm lại. Hàm lượng Zn của các khu vực sản xuất chè Trung Quốc không đồng nhất. 1g trà không có 35-50mg Zn; trà xanh là 41,4, trà đen là 39,3, trà Ô long là 37,3mg Zn.
– Fluor là môi giới chủ yếu của kết cấu xương; có tác dụng phòng trị tốt đối với bệnh răng và bệnh loãng xương. Hàm lượng Fl trong chè tương đối cao (trên 100ppm), thùy loại trà, theo thứ tự cao đến thấp sau đây: Hắc trà, Ô long trà, trà đen, trà xanh. Thiếu Fl dễ mắc bệnh khắc sơn (Parkinson) và ung thư đại tràng. Fl có nhiều trong trà gạch ép bánh, là một loại trà yêu thích của các dân tộc thiểu số vùng Tây Tạng, Tân Cương, Cam Túc, Nội Mông Cổ. Các vùng này phần lớn nằm tại cao nguyên, lấy chăn nuôi súc mục làm nghề chính; trong kết cấu khẩu phần lương thực với một hàm lượng lớn là thịt và sữa, có nhu cầu uống trà gạch hàng ngày để phân giải lipid, hỗ trợ tiêu hóa và bổ sung vitamin. Do đó trà gạch (bánh) đã trở thành một nhu yếu phẩm phải có trong sinh hoạt hàng ngày của dân tộc thiểu sống vùng biên cương. Nhưng quá nhiều Fl lại gây bệnh Fluorosis ảnh hưởng đến sức khỏe.
– Calcium: Hàm lượng Ca trong trà xanh là 1,4-3,3mg, trà đen là 2,9-6,6mg/g trà khô.
– Magie trong trà xanh là 1,2-2,4mg, trà đen là 1,2-2,3mg/g trà khô.
– Fe trong trà xanh là 80-260mg, trà đen là 100-290mg/g trà khô.
– Mangan trong trà xanh là 0,2-1,1mg, trà đen là 0,25-1,3mg/g trà khô.
Mỗi ngày uống 5-6 chén trà thì đảm bảo ±45%, 25% và 10% nhu cầu về mangan, kali, Se và Zn.
4. Các loại glucid (hydratcarbon)
Glucid là loại vật chất dinh dưỡng chủ yếu của con người, để duy trì ổn định giữ nhiệt độ cơ thể. Glucid là nhóm hợp chất hữu cơ quan trọng và phổ biến trong thực vật. Hàm lượng glucid chiếm tới 85-9-% trong nhiều thực vật, nhưng trong lá chè thấp, không vượt quá 20% trọng lượng chất khô, thuộc loại nước uống ít đường thích hợp người mắc bệnh đái tháo đường.
Glucid là nguồn chủ yếu cung cấp năng lượng trong tế bào thực vật và có tác dụng chống rét, chống bệnh. Glucid trong cây chè phân loại thành hai nhóm lớn:
– Glucid đơn giản hay monosacarid (như đường bồ đào, glucose).
– Glucid phức tạp hay polysaccarid, do nhiều phần tử monosaccarid kết hợp với nhau thành mạch dài có trọng lượng phân tử lớn; nhóm này không tan trong nước hoặc tạo thành dung dịch keo (như tinh bột, cellulose).
– Hàm lượng glucid hòa tan trong nước tăng theo tuổi lá chè; hàm lượng glucid không tan nhiều hơn trong trà xấu.
– Các loại glucid (đường) hòa tan rất ít, còn các loại không hòa tan thì nhiều hơn. Đường hòa tan trong chè tuy ít nhưng có giá trị lớn trong việc điều hòa vị chè và tham gia trong quá trình caramen hóa dưới tác dụng của nhiệt độ, để tạo thành hương thơm vị ngọt (mùi thơm cốm nổi lên trong khi sao chè, hay mùi hương đọng lại trong chén uống trà). Đường khử tác dụng với catechin hay với axit amin (phenylalanin) trong quá trình lên men hay nhiệt học, tạo nên màu nâu sáng hay vàng rơm và mùi hoa quả.
Trích: Khoa học Văn hóa trà Việt Nam và Thế Giới – Trang [211-214]
Tác giả: PGS. Đỗ Ngọc Quỹ – TS. Đõ Thị Ngọc Oanh